Chuyển đến nội dung chính

Việt kịch là gì?

viet-kich

Việt Kịch - Phần 1


viet-kich viet-kich viet-kich viet-kich

Việt kịch là loại hình nghệ thuật như nào?

Việt kịch (phiên âm Hán ngữ: yuèjù, tiếng Anh: Yue Opera) — là loại hình hí kịch lớn thứ hai của Trung Quốc được mệnh danh là "Quốc kịch thứ hai" , đồng thời cũng được gọi là "loại hình hí kịch địa phương phổ biến nhất" [3], có quan điểm cho rằng đây là "hí kịch địa phương lớn nhất" Ở nước ngoài, Việt kịch được biết đến với tên gọi "Chinese Opera" (Nhạc kịch Trung Quốc)
Việt kịch cũng nằm trong nhóm Năm đại hí kịch Trung Quốc (theo thứ tự: Kinh kịch, Việt kịch, Hoàng Mai hí, Bình kịch, Dự kịch)

Loại hình này khởi nguồn từ Thượng Châu, tỉnh Chiết Giang, phát triển rực rỡ tại Thượng Hải, hưng thịnh khắp toàn quốc, và lan tỏa ra thế giới.
Trong quá trình phát triển, Việt kịch đã tiếp thu tinh hoa từ các loại hình như Côn khúc, Kịch nói, Thiệu kịch,... đồng thời trải qua biến chuyển lịch sử từ Việt kịch nam diễn sang Việt kịch nữ diễn làm chủ đạo.

Việt kịch nổi trội về khả năng trữ tình, lấy ca xướng làm trung tâm, với âm thanh du dương, dễ nghe, biểu diễn chân thực, giàu cảm xúc, mang phong cách thanh nhã, mỹ lệ, và thấm đẫm nét thanh tú vùng Giang Nam.
Nội dung chủ yếu xoay quanh đề tài "tài tử giai nhân", hệ thống trường phái nghệ thuật phong phú, riêng các phái được công nhận rộng rãi đã lên đến mười ba phái.
Việt kịch chủ yếu phổ biến tại các khu vực phía Nam như Thượng Hải, Chiết Giang, Giang Tô, Phúc Kiến, Giang Tây, An Huy, đồng thời cũng được yêu thích tại nhiều khu vực phía Bắc như Bắc Kinh, Thiên Tân.
Thời kỳ đỉnh cao, ngoại trừ một số ít tỉnh như Tây Tạng, Quảng Đông, Quảng Tây, khắp toàn quốc đều có các đoàn Việt kịch chuyên nghiệp tồn tại .

Việt kịch đã được đưa vào Danh mục Di sản Văn hóa Phi vật thể Quốc gia đợt đầu tiên.
Năm 2006, Viện truyền thừa nghệ thuật Việt kịch Thượng Hải (tức Nhà hát Việt kịch Thượng Hải) và Trung tâm bảo tồn truyền thừa nghệ thuật Việt kịch Thượng Châu đã được công nhận là đơn vị bảo hộ quốc gia đối với dự án di sản Việt kịch [9].
Đến năm 2008, Đoàn Việt kịch Phương Hoa, tỉnh Phúc Kiến tiếp tục được công nhận là đơn vị bảo hộ quốc gia cho dự án di sản Việt kịch ( Doãn phái)

Nguồn gốc tên gọi

Việt kịch (越剧) có nguồn gốc từ loại hình “Lạc địa xướng thư” (落地唱书).
Về sau, loại hình này còn được gọi với nhiều tên khác như:
Nữ tử khoa ban” (女子科班),
Thiệu Hưng nữ tử văn hí” (绍兴女子文戏),
Đích đốc ban” (的笃班),
Thảo đài ban hí” (草台班戏),
Tiểu ca ban” (小歌班),
Thiệu Hưng hí kịch” (绍兴戏剧),
Thiệu Hưng văn hí” (绍兴文戏),
Mào nhi tiểu ca ban” (髦儿小歌班),
Thiệu kịch” (绍剧),
Thượng kịch” (嵊剧),
và “Thiện kịch” (剡剧).

viet-kich

Tên gọi “Việt kịch” được sử dụng lần đầu tiên vào ngày 17 tháng 9 năm 1925, khi đoàn “Đích đốc ban” biểu diễn tại khu giải trí Tiểu Thế Giới. Trong quảng cáo đăng trên báo Thân Báo (申报), lần đầu tiên cái tên “Việt kịch” xuất hiện.

Từ năm 1938 trở đi, phần lớn các đoàn kịch, gánh hát đều lần lượt sử dụng tên gọi “Việt kịch”. Tuy nhiên, các tờ báo chuyên ngành sân khấu lúc đó vẫn chưa thống nhất, phóng viên và người gửi bài thường dùng các tên gọi khác nhau.

Năm 1939, phóng viên Phàn Địch Dân (樊迪民) của báo Đại Công Báo (大公报), đồng thời là biên đạo của đoàn kịch "Việt Ngâm Vũ Đài" (越吟舞台) do danh ca Diêu Thủy Quyên (姚水娟) sáng lập, đã lấy cảm hứng từ bài thơ “Việt nữ từ” (越女词) của Lý Bạch.
Ông xét đến việc Thiệu Hưng là nơi Việt vương Câu Tiễn phục quốc sau khi bại trận dưới tay Ngô quốc, mà huyện Thượng - nơi khai sinh ra Việt kịch - lại trực thuộc Thiệu Hưng.
Bên cạnh đó, ông còn chịu ảnh hưởng bởi lời tuyên ngôn khí phách của danh ca Diêu Thủy Quyên: "Ta phải hát (việt) càng ngày càng vang, (việt) càng ngày càng cao, (việt) càng ngày càng xa".
Vì vậy, ông đã viết bài gửi cho tạp chí Kịch Báo (戏剧报) do Như Bá Hân (茹伯勋) biên tập, công bố bài viết giải thích nguyên nhân và ý nghĩa việc chính thức đặt tên “Việt kịch”, thông báo rộng rãi đến công chúng.

Từ đó, các tờ báo lần lượt đổi mục quảng cáo “Nữ tử văn hí” thành “Việt kịch”, và sau khi nước Trung Hoa mới thành lập, tên gọi “Việt kịch” được thống nhất chính thức.

Do giai đoạn đầu Việt kịch từng mang tên “Thiệu Hưng hí kịch” (绍兴戏剧) và “Thiệu Hưng văn hí” (绍兴文戏), nên cũng có cách gọi Việt kịch là “Thiệu Hưng hí” (绍兴戏).
Tuy nhiên, thực chất đó chỉ là sự mượn danh vào thời điểm Việt kịch chưa có tên riêng, chứ Việt kịch không đồng nghĩa với Thiệu Hưng hí [14-15].
Dẫu vậy, do quá trình tam sao thất bản, trong quá trình dịch thuật, thuật ngữ “Shaoxing Opera” (kịch Thiệu Hưng) cũng được sử dụng.
Nhưng theo tiêu chuẩn chính quy, Việt kịch phải được dịch là "Yue Opera" (cũng có nơi ghi là "YueJu Opera"), cách dịch này đã được các tài liệu chuyên ngành, tài liệu chính thức cũng như giới truyền thông tiếp nhận và sử dụng rộng rãi.
Còn cách dịch nhầm "Shaoxing Opera" thì nay chỉ được xem như một tồn tích lịch sử.

Lịch sử phát triển

viet-kich viet-kich

Giai đoạn ươm mầm – Lạc địa xướng thư

Năm 1852 (niên hiệu Hàm Phong thứ hai triều Thanh), nông dân Kim Kỳ Bính ở thôn Mã Đường, Tây Hương, huyện Thặng (nay là thành phố Thặng Châu, tỉnh Chiết Giang) sáng tạo ra hình thức "Lạc địa xướng thư" – một loại hình nói hát phổ biến tại vùng này. Ban đầu, hình thức này dần tiến hóa thành diễn xướng sân khấu ở nông thôn, người biểu diễn chủ yếu là những nông dân nam giới, nửa làm nông nửa theo nghệ thuật, nên gọi là "Nam ban" (ban diễn nam giới).

Tiểu Ca Ban (Nhóm ca nhỏ)
Ngày 27 tháng 3 năm 1906, trước miếu hương hỏa ở thôn Đông Vương, huyện Thặng, các nghệ nhân Lạc địa xướng thư như Viên Phúc Sinh, Lý Mậu Chính, Cao Bỉnh Hỏa, Lý Thế Tuyền mượn bốn thùng lúa lót nền, đặt ván cửa lên làm sân khấu, diễn các vở tiểu kịch "Mười món đồ", "Nghê Phượng quạt trà" và đại kịch "Song Kim Hoa" (nửa sau). Đây là lần đầu tiên Nghệ thuật Việt kịch (sau gọi là "Tiểu Ca Ban") bước lên sân khấu thử nghiệm, và ngày này được xem là ngày sinh nhật của Việt kịch.
Ngày 13 tháng 5 năm 1917, Tiểu Ca Ban lần đầu tiên tiến vào Thượng Hải, biểu diễn tại "Tân Hóa Viên" ở Thập Lục Phố. Vì nghệ thuật còn thô sơ, số khán giả rất ít. Sau đó có thêm ba nhóm khác đến Thượng Hải nhưng cũng thất bại. Sau khi học hỏi kỹ thuật biểu diễn của "Thiệu Hưng đại ban" và Kinh kịch, trình độ nghệ thuật được nâng cao, đến năm 1919, Tiểu Ca Ban mới dần dần đứng vững ở Thượng Hải.
Từ năm 1920, Tiểu Ca Ban tập hợp các diễn viên nổi tiếng, biên dựng nhiều vở mới như "Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài", "Bích Ngọc Trâm", "Mạnh Lệ Quân" v.v., rất phù hợp với làn sóng đòi quyền phụ nữ và bình đẳng giới sau phong trào Ngũ Tứ, nên được công chúng yêu thích. Sau đó, ông chủ sân khấu Thăng Bình Ca Vũ Đài là Chu Lân Chỉ đã mời ba nhạc công từ tổ chức nhạc dân gian "Hí Khách Ban" ở Thặng Huyện đến Thượng Hải, thành lập ban nhạc đệm chuyên nghiệp đầu tiên trong lịch sử Việt kịch.
Họ định âm theo phong cách "Chính cung điều" của Thiệu Hưng đại ban, gọi tắt là "Chính điều", từ đó hình thành phong cách nhạc chính dây tơ (tơ dây chính điều) của Việt kịch, đồng thời tiếp thu cách dùng "bảng thức" (nhịp điệu) của Thiệu Hưng đại ban, xây dựng khung nhạc bảng khúc thể cho Việt kịch.

Kịch văn Thiệu Hưng

Ngày 16 tháng 9 năm 1921, đoàn hát do Phí Thúy Đường, Nhan Hoán Đình dẫn dắt diễn tại "Đệ Nhất hí viện", lần đầu tiên thuật ngữ "Kịch văn Thiệu Hưng" được đăng trên quảng cáo của Nhật báo Tân Văn.
Từ cuối năm 1921 đến năm 1922, các nghệ nhân nam đổi tên loại hình này thành "Kịch văn Thiệu Hưng", hấp thụ kỹ thuật trình diễn của Kinh kịch và Thiệu kịch, phát triển thành hí kịch cổ trang. Kịch mục chủ yếu bị ảnh hưởng bởi Kinh kịch phái Hải phái, biên dựng thành loạt kịch nối tiếp nhiều màn để biểu diễn tại các khu vui chơi như "Đại Thế Giới", "Tân Thế Giới", cũng như trong các quán trà, khách sạn và rạp nhỏ. Các diễn viên chính lúc đó gồm có tiểu sinh Vương Vĩnh Xuân, Chi Duy Vĩnh; tiểu đán Vệ Mai Đóa, Bạch Ngọc Mai, Kim Tuyết Phương; lão sinh Mã Triều Thủy; tiểu hề Mã A Thuận, đại diện mặt nạ Kim Vinh Thủy...

Vươn ra thế giới

Trong khi ảnh hưởng đã lan rộng khắp Trung Quốc, Nghệ thuật Kinh kịch (越剧, Yueju) còn vượt ra ngoài biên giới quốc gia, giành được danh tiếng trên trường quốc tế, và được gọi ở nước ngoài là "Nhạc kịch Trung Quốc".

Năm 1953, bộ phim kinh kịch màu lớn đầu tiên của nước Trung Quốc mới - "Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài" - được quay và do Thủ tướng Chu Ân Lai chỉ thị chiếu tại Phòng Báo chí của Đoàn đại biểu Trung Quốc trong Hội nghị Geneva, góp phần đảo ngược luận điệu phổ biến ở phương Tây lúc bấy giờ rằng "Cộng sản không cần văn hóa".
Cũng trong mùa xuân năm 1953, Từ Ngọc LanVương Văn Quyên tham gia Đội Văn công của Bộ Chính trị trong Đoàn đại biểu đàm phán đình chiến của Quân đội Nhân dân Trung Quốc, biểu diễn phục vụ binh sĩ Trung - Triều và tham gia công tác trao đổi tù binh, được trao Huân chương Quốc kỳ hạng ba của Đảng Lao động Triều Tiên và Huân chương công trạng hạng hai của Bộ chỉ huy quân tình nguyện.

Ngày 19/6/1955, Đoàn Kinh kịch Trung Quốc do Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải tổ chức đã đến thăm và biểu diễn tại Cộng hòa Dân chủ Đức. Từ ngày 2/7 cùng năm, đoàn biểu diễn ở Berlin, Dresden và các nơi khác. Thủ tướng Otto Grotewohl đã xem vở "Tây Sương Ký" và lên sân khấu gặp gỡ các nghệ sĩ. Ngày 24/7, đoàn biểu diễn cho quân đội Liên Xô đóng tại Đức. Ngày 30/7, đoàn rời Berlin sang Liên Xô, biểu diễn tại Minsk và Moskva.
Ngày 15/8, các lãnh đạo Liên Xô như Voroshilov, Kaganovich, Malenkov, Mikoyan, Pervukhin đã cùng nhau xem vở "Lương Chúc" và gặp gỡ các nghệ sĩ sau buổi diễn. Voroshilov còn đích thân tặng hoa cho từng thành viên.
Ngày 9/9, sau buổi diễn "Tây Sương Ký" tại Moskva, một cảnh trong vở đã được quay thành phim. Ngày 10/9, đoàn rời Novosibirsk trở về nước.
Chuyến lưu diễn tại Đông Đức và Liên Xô đã giúp người châu Âu mở rộng tầm nhìn về sự phong phú của nghệ thuật sân khấu Trung Quốc. Giới văn nghệ ở hai nước này ca ngợi "Tây Sương Ký""Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài" là những "bản thơ trữ tình tuyệt vời, tràn đầy tính nhân dân".
Nhà phê bình kịch nghệ Hubov đã viết bài "Bài ca tình yêu" trên tờ Pravda, ca ngợi Kinh kịch Trung Quốc "bỏ đi nhiều yếu tố lỗi thời và bảo thủ, giữ lại những truyền thống tươi đẹp, lâu đời, thấm đẫm tinh thần dân chủ thực sự, và phát triển chúng theo một ý nghĩa mới".
Nhà phê bình Kabalevsky cũng viết bài "Vẻ xuân của nền văn hóa cổ đại", khen ngợi Kinh kịch biết kết hợp truyền thống lâu đời với chủ nghĩa hiện thực hiện đại.
Hãng thông tấn TASS đưa tin khán giả gọi "Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài""Romeo và Juliet của Trung Quốc".
Một nhà văn Đức đăng bài trên Tờ Báo Chiều, viết:
"Dù không hiểu ngôn ngữ, con người vẫn cảm nhận được tất cả. Trong khoảnh khắc không thể chia tách ấy, người ta có thể cảm thấy niềm vui sướng tột cùng và nỗi đau buồn vô hạn. Thật là một kiệt tác nghệ thuật... Tôi đã chứng kiến một nghệ thuật hoàn mỹ, đơn giản và chân thực như tấm gương của tâm hồn con người."

Từ 17/2 đến 3/4/1959, theo Hiệp định hợp tác văn hóa Trung-Việt, Đoàn Kinh kịch Trung Quốc do Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải tổ chức đã đến Cộng hòa Dân chủ Việt Nam biểu diễn 28 suất tại 9 tỉnh thành như Hà Nội, Hải Phòng, thu hút hơn 200.000 lượt khán giả.

Năm 1959 và 1961, Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải lần lượt đến thăm Cộng hòa Dân chủ Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên biểu diễn.
Từ đầu những năm 1960, các đoàn như Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải, Đoàn Kinh kịch Lư Loan, Đoàn Kinh kịch Tĩnh An nhiều lần đến Hồng Kông, Ma Cao biểu diễn và được đón tiếp nồng nhiệt. Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải cũng từng lưu diễn giao lưu văn hóa tại Singapore, Thái Lan, Hồng Kông, Đài Loan.

Từ ngày 23/12/1960 đến 26/1/1961, Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải lần đầu tiên dưới danh nghĩa "Đoàn Kinh kịch Thượng Hải" đến biểu diễn tại Hồng Kông.
Ngày 14/7/1961, do Ban Chấp hành Tỉnh ủy Chiết Giang chủ trì, Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải trình diễn "Hồng Lâu Mộng" tại Khách sạn Hàng Châu để đón tiếp Đoàn đại biểu chính phủ Triều Tiên do Kim Nhật Thành dẫn đầu, có Thủ tướng Chu Ân Lai cùng dự và sau đó gặp mặt các nghệ sĩ.
Ngày 17/8, theo tổ chức của Ban Ngoại vụ Thành ủy Thượng Hải, vở "Đả Kim Chi" do Từ Ngọc Lan thủ diễn đã được biểu diễn để chiêu đãi Tổng thống Ghana, Kwame Nkrumah.

Từ 8/9 đến 18/10/1961, theo lời mời của Kim Nhật Thành, Đoàn Hai của Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải (với tên "Đoàn Kinh kịch Thượng Hải Trung Quốc") sang Triều Tiên biểu diễn. Các lãnh đạo Triều Tiên như Kim Nhật Thành, Choe Yong-gon và Đoàn đại biểu Trung ương Trung Quốc do Đặng Tiểu Bình dẫn đầu cùng dự khán.
Cuối tháng 10, khi đoàn trở về nước, Thủ tướng Chu Ân Lai tiếp toàn đoàn tại Đại lễ đường Nhân dân.

Cuối năm 1962 đến đầu 1963, Thứ trưởng Bộ Văn hóa Từ Bình Vũ dẫn theo Từ Ngọc Lan và Vương Văn Quyên sang Triều Tiên hỗ trợ dàn dựng vở "Hồng Lâu Mộng" phiên bản Triều Tiên. Kim Nhật Thành tiếp và chụp ảnh chung.

Ngày 7/10/1964, tại Rạp chiếu phim Hữu nghị, Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải biểu diễn "Đả Kim Chi" (do Lữ Thụy Anh, Trần Thiếu Xuân thủ vai) và "Mẫu Tử Hội" (do Từ Ngọc Lan, Chu Bảo Khuê thủ diễn) để chiêu đãi Đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam do Phạm Văn Đồng dẫn đầu.

Cuối năm 1983, các diễn viên trẻ của Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải sang Nhật Bản biểu diễn "Hồng Lâu Mộng".
Năm 1986, đoàn tham gia Liên hoan Nghệ thuật Mùa thu Paris.
Tháng 5/1989, một nhóm nghệ sĩ của Nhà hát Kinh kịch Thượng Hải lưu diễn tại Mỹ, được cộng đồng quốc tế và kiều bào nhiệt liệt hoan nghênh.

Năm 1990, Lữ Thụy Anh cùng Phạm Thụy Quyên, Trương Quế Phượng mang các tiết mục như "Đả Kim Chi" sang Đức, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Luxembourg biểu diễn.

Năm 1994, Lữ Thụy Anh nhận Giải Nghệ sĩ châu Á xuất sắc nhất do Hiệp hội Nghệ thuật Hoa Kiều tại New York trao tặng.

Ngày 17/8/2001, Đoàn Tiểu Bách Hoa Thiệu Hưng tham dự "Liên hoan kịch dân gian châu Á" tại Thái Lan, biểu diễn "Lương Sơn Bá và Chúc Anh Đài" tại Trung tâm Văn hóa Thái Lan, được khán giả và bạn bè quốc tế khen ngợi. Khán giả nhiệt liệt vỗ tay, nhiều người sau khi xem suất đầu tiên đã chen nhau mua vé suất thứ hai.
Tham tán văn hóa Đại sứ quán Trung Quốc tại Thái Lan, ông Tần Dụ Sâm, vui mừng nhận xét:
"Biểu diễn của Tiểu Bách Hoa rất tuyệt vời và cảm động, thể hiện trọn vẹn tinh hoa văn hóa Trung Hoa và vẻ đẹp của Nghệ thuật Kinh kịch, góp phần thúc đẩy giao lưu văn hóa Trung - Thái."

Tháng 3/2002, Đoàn Tiểu Bách Hoa Thiệu Hưng biểu diễn tại Singapore với các vở như "Bổ Sơn Cứu Mẫu", "Ly Miêu Hoán Thái Tử", "Lục Văn Long", nhận được sự hoan nghênh nồng nhiệt.

Ngoài ra, Đoàn Kinh kịch Chiết Giang cũng biểu diễn ở Anh, Pháp, Malaysia, Singapore, Thái Lan, Nhật Bản..., giành được tiếng vang lớn trong và ngoài nước.
Khi lưu diễn tại Phần Lan, với vở "Tình nhân bướm" (chính là "Lương Chúc"), đã khiến khán giả châu Âu say mê đến nỗi Đệ nhất Phu nhân Phần Lan xúc động rơi nước mắt.
Đoàn Tiểu Bách Hoa Chiết Giang còn thực hiện các buổi diễn thương mại tại Mỹ, từ Los Angeles, San Francisco đến New York, gây nên cơn sốt "Làn gió nhỏ Bách Hoa".
Các phương tiện truyền thông lớn đều đưa tin, tờ International Daily News viết:
"Dù trước đó đoàn chưa biết khán giả Mỹ sẽ phản ứng thế nào, nhưng những tràng pháo tay nồng nhiệt kéo dài đến tận cuối buổi diễn đã chứng minh rằng không chỉ khán giả người Hoa mà cả khán giả Mỹ cũng đã hiểu và bị cuốn hút bởi diễn xuất tuyệt vời cùng câu chuyện xúc động."

(Phần 2 tiếp theo ->)



Nhận xét

Bài đăng phổ biến từ blog này

Tân Long Môn Khách Trạm

  Tân Long Môn Khách Trạm Vở  Việt kịch  ( 越剧 ) do  Tiểu Bách Hoa Chiết Giang ,  Bách Việt Văn Sáng  và  M ột Sân Khấu Hay  phối hợp sáng tác vào năm  2023 . (Trần Lệ Quân - Giả Đình) “Tân Long Môn Khách Trạm” là một vở Việt kịch phong cách quốc phong mới và theo hình thức sân khấu không gian (môi trường thực cảnh), do Nhà hát Việt kịch Tiểu Bách Hoa Chiết Giang , Công ty TNHH Sáng tạo Văn hóa Bách Việt và Công ty TNHH Truyền thông Văn hóa Biểu diễn Cực Chất Một Sân Khấu Hay (Thượng Hải) phối hợp sản xuất. Vở diễn được công diễn lần đầu vào ngày 28 tháng 3 năm 2023 tại Nhà hát Hồ Điệp, Hàng Châu, Chiết Giang . Tác phẩm được Chuyển thể từ bộ phim điện ảnh Hồng Kông cùng tên năm 1992 – “Tân Long Môn Khách Trạm” . Nội dung kể về bối cảnh vào giữa triều Minh, khi hoạn quan chuyên quyền, Tổng quản Đông Xưởng – Tào Thiếu Khâm đã sát hại Thượng thư Bộ Binh Dương Vũ Hiên và âm mưu truy sát hậu duệ của ông để dụ dỗ tàn dư trung thần là C...

Tiểu sử Trần Lệ Quân

  TRẦN LỆ QUÂN Tóm Tắt Tiểu Sử Họ và tên Trần Lệ Quân Ngày sinh 09.5.1992 Nghề nghiệp Diễn Viên Việt Kịch Quê quán Thặng Châu, Chiết Giang, Trung Quốc Tốt nghiệp trường Trường Cao đẳng Nghệ thuật Chiết Giang Đơn vị công tác Đoàn Việt kịch Tiểu Bách Hoa Lĩnh vực hoạt động Việt kịch Tác phẩm nổi tiếng Tân Long Môn Khách Trạm Tác phẩm tiêu biểu Đại Quan Viên, Hà Văn Tú, Bộ Bộ Kinh Tâm, Lương Sơn Bá Chúc Anh Đài, Hán Văn Hoàng Hậu, Bạch Thố Ký Trần Lệ Quân là một diễn viên trẻ tài năng thuộc đoàn Việt kịch Tiểu Bách Hoa Chiết Giang. Cô thoát vòng nổi tiếng từ cuối năm 2023 với vai Giả Đình trong vở "Tân Long Môn Khách Trạm". Vẻ "đẹp trai" của cô gây ấn tượng mạnh với khán giả bởi kỹ nă...

Đại Quan Viên của tôi

Hồng Lâu Mộng (Phiên Bản Việt kịch) " Đại Quan Viên Của Tôi" là một vở hí kịch truyền thống (Nhạc kịch Trung Hoa - thể loại: Việt kịch ) do Nhà hát Việt Kịch Tiểu Bách Hoa Chiết Giang sản xuất, đạo diễn bởi Từ Tuấn, biên kịch La Hoài Trân, với sự tham gia diễn chính của Trần Lệ Quân cùng các diễn viên Hà Thanh Thanh, Hạ Nghệ Dịch, Lý Vân Tiêu, Trương Á Châu, Vương Tiêu Long, Tạ Giang Huệ, v.v. Vở kịch được phỏng theo tác phẩm kinh điển "Hồng Lâu Mộng". Thông tin chi tiết:  Tên tiếng Trung: 我的大观园 (Đại Quan Viên Của Tôi) Thời gian biểu diễn: Từ 19/01/2025 đến 20/01/2025 Địa điểm: Nhà hát Hồ Điệp Hàng Châu (Nhà hát Việt Kịch Tiểu Bách Hoa) Thể loại: Việt Kịch ( 越剧 ) Diễn viên chính: Trần Lệ Quân, Hà Thanh Thanh, Hạ Nghệ Dịch, Lý Vân Tiêu Đạo diễn: Từ Tuấn Biên kịch: La Hoài Trân Đơn vị sản xuất: Nhà hát Việt Kịch Tiểu Bách Hoa Chiết Giang Hạng mục Tên n...

Quá trình tiếp xúc và kiên trì theo đuổi Việt kịch

  “ Thời niên thiếu và bước đầu tiếp xúc với Nghệ thuật Việt kịch ”:  Thời niên thiếu Năm 1992, Trần Lệ Quân sinh ra tại thành phố Thặng Châu, tỉnh Chiết Giang – nơi được mệnh danh là “quê hương của Nghệ thuật Việt kịch”. Từ nhỏ, cô đã thấm nhuần âm điệu của Việt kịch trong môi trường sống quanh mình. Vì cha mẹ cô làm nghề trồng và chế biến trà, suốt ngày làm lụng vất vả từ sáng sớm đến khuya, thường xuyên thức trắng đêm trong xưởng chế biến. Khi còn nhỏ, Trần Lệ Quân thường tỉnh giấc giữa đêm, thấy nhà cửa vắng tanh không một bóng người. Trong bóng tối, cô lò mò một mình đến xưởng trà tìm cha mẹ. Dưới bầu trời đầy sao, dù trời đêm mịt mùng, cô cũng không cảm thấy sợ hãi. Người lớn thấy vậy vừa ngạc nhiên vừa bất đắc dĩ, đành để cô ở bên cạnh, rồi vừa làm việc vừa dạy cô hát những điệu Việt kịch nhẹ nhàng. Cứ như thế, cô lớn lên trong những làn điệu Việt kịch du dương và sâu lắng. Tiếp xúc với Việt kịch Năm 13 tuổi, nhờ được tiếp xúc từ nhỏ và đặc biệt yêu th...